Hiển thị các bài đăng có nhãn Quảng Nam. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Quảng Nam. Hiển thị tất cả bài đăng

Thị Trấn "Giang Hồ" (Quảng Nam)


Chưa có công ty du lịch nào chính thức đưa tour khám phá văn hóa dân tộc Phước Sơn, kể từ lễ hội văn hóa và một hội chợ du lịch miền núi vài năm trước. 

Chỉ có những lời đồn đại về một thị trấn vàng, phảng phất không khí lạnh lùng, kiêu bạc đầy nghi hoặc như các thị trấn giang hồ dọc miền viễn Tây trong truyện của Jack London, đã khiến nhiều người e ngại lẫn tò mò tìm gặp...

Có thể chọn 2 ngả đường. Từ Đà Nẵng ngược quốc lộ 14B (82 km) qua Nam Giang, xuôi đường Hồ Chí Minh đến; hoặc từ Tam Kỳ theo quốc lộ 14E (100km), từ ngã ba cây Cốc (Hà Lam) lên tới ngã ba làng Hồi sẽ gặp Phước Sơn.



1. 14 giờ ở Tam Kỳ, 17 giờ đã chạm mặt Khâm Đức. Con đường Hồ Chí Minh xẻ ngang lòng thị trấn, cỏ cây dọc đường và cánh rừng trước mặt chợt óng ả, tinh khôi sau vài cơn mưa đẫm nước. Chưa kịp tàn bữa cơm chiều nơi một quán ăn không nhớ nổi tên, bóng tối và sương mỏng cùng những tia sáng yếu ớt hắt ra từ các căn nhà đã phủ lên thị trấn một màu “lành lạnh”.

Thi thoảng vài ánh đèn pha ô tô, xe máy quét ngang qua phố núi, rồi lẫn khuất vào cuối đường. Chỉ còn tiếng nhạc boléro rền rĩ suốt một dãy phố, tiếng trẻ con nói cười chát chít trong vài quán internet hòa lẫn tiếng lao xao chạm cốc, trò chuyện rôm rả dọc các quán rượu bày trên phố và dưới tán cây ven đường... Người ta bảo, mấy năm trở lại đây, thị trấn hoang liêu này đủ sức “liên lạc” với cả thế giới bên ngoài từ các dịch vụ internet và mạng di động đã phủ sóng...



Bác xe thồ đứng tuổi đợi khách ở trạm xăng cuối phố cho biết thị trấn bây giờ đã hiền lành hơn trước rất nhiều. Thi thoảng mới có vài cuộc đụng độ giữa đám “giang hồ tứ chiếng” đãi vàng, nhưng ở tận đâu Phước Kim, Phước Thành. Song những lời đồn đại đầy “ám ảnh”, nghi hoặc về một thị trấn phảng phất hơi hướng lạnh lùng, kiêu bạc như các thị trấn cao bồi, giang hồ của miền viễn Tây đã khiến du khách e ngại lẫn tò mò, rón rén đi dọc thị trấn. Quả thật cũng chẳng có gì ngoài các âm thanh đã gặp với bao cái nhìn chờ đợi... một ngày của cư dân thị trấn - vốn buồn tẻ như bao phố huyện hoang liêu trên dọc đường gió bụi vùng cao khác.



Đêm mịt mù trôi qua trong tiếng gió thổi ngoài bãi vắng, lướt qua mặt sân bay dã chiến cũ còn nguyên phi đạo dài 1 km, rộng 50 m rồi rít qua khe cửa khách sạn giữa trung tâm thị trấn. Một khách sạn vùng cao mà chẳng khác gì giữa phố đồng bằng: sang trọng, rộng, đủ tiện nghi, chỉ thiếu... máy lạnh (như Đà Lạt). Cô lễ tân vui vẻ “khoe” rằng nhiều du khách đã chọn nơi này qua đêm. Ngoài khách sạn 24 phòng, khách có thể tìm thấy vài nhà nghỉ và nhiều quán ăn hấp dẫn khác ngay thị trấn...

2. Đúng như lời giới thiệu của tay tài xế có máu mạo hiểm. Cung đường từ thị trấn đến đèo Lò Xo quả là đẹp nhất trong suốt 175 km đường Hồ Chí Minh qua Quảng Nam. Xe trôi theo con đường đầy hiểm trở, uốn lượn quanh sườn đồi, như cầu vồng, qua nhiều cánh rừng rậm, lọt giữa các khe núi trập trùng nối tiếp nhau...



Lác đác vài cư dân địa phương gùi dưa, thơm trên những chiếc gùi mộc, lầm lũi xuôi dốc. Không ít khách du lịch dừng lại bên cầu thác nước (km 283), ngắm dải nước mờ như bức rèm thưa ẩn hiện giữa đại ngàn của thác Bà hoàng Mô nich, hoặc chụp ảnh kỷ niệm giữa đường...

Từ trên đỉnh Lò Xo (không quên thắp một nén hương tưởng nhớ các vị cựu chiến binh gặp tai nạn trong ngày trở lại vài năm trước ở cuối dốc đèo - một khám thờ dường như không lúc nào tắt lửa chân hương), đã có thể ngắm nhìn non sông thủy tú. Xa xa là cánh rừng lá vàng - màu vàng như trong tranh của Levitan, phía dãy núi Ch'lum Heo ở Ngọc Linh, vàng suốt quanh năm...



Và, đám người “thám hiểm” đã phải vất vả leo lên cứ điểm Ngok Tak Vak ở độ cao 378m so với mặt nước biển, thuộc Phước Mỹ, cách thị trấn Khâm Đức 7km. Dù cứ điểm giờ chỉ còn dấu tích của sân bay trực thăng dã chiến, lọt giữa một rừng đồi núi trập trùng, và cũng chỉ vọng lại tiếng hô xung phong công đồn của quân giải phóng ngày 9-5-1968.

Rồi khách trở lại cũng để ngắm nhìn sân bay, đồi E và lang thang cùng thị trấn, dường như chỉ có mùa thu hanh hao se lạnh và mùa đông lướt thướt mưa qua...



3. Năm trước, một cuộc hội thảo về du lịch khám phá văn hóa dân tộc miền núi dọc đường Hồ Chí Minh mở, đã kéo những người khát khao du lịch về Khâm Đức, bàn tính chuyện tương lai. Những cái tên thác Nước Lang, thác Bà hoàng Mô- ních, cứ điểm Ngok Tak Vak, di tích đồi E, sân bay Khâm Đức..., dù không còn lưu giữ các hiện vật lẫn bãi vàng Phước Đức vẫn được chọn, làm vệ tinh cho trung tâm du lịch Khâm Đức, để có thể khai thác các tour đặc thù dành cho các cựu chiến binh đã từng tham chiến tại khu vực này.



Từ đó, dân địa phương đã âm thầm sửa sang lại đường, xây nhà nghỉ và tập làm... dịch vụ, mơ ngày đón khách, thay vì như đã từng “đón” đám “giang hồ tứ chiếng” lên thị trấn, chuẩn bị những cuộc săn vàng như trước đây.

Một ngày thôi đã hết. Xe cuốn bụi mù trở lại phố. Vẫn còn vọng lại lời cô hàng cà phê nơi phố núi: “Thị trấn em như một cô công chúa, mỏi mòn chờ đợi... Ngày anh trở lại, thị trấn đã là thị xã. Một Tây Đô của Quảng Nam đấy! Tha hồ làm giàu...”.

Thăm làng Tranh Dừa Cẩm Thanh (Hội An)


 Nằm cách khu phố cổ Hội An chừng 5km về phía Đông, làng nghề tranh dừa ẩn mình trong màu xanh bạt ngàn của rừng dừa Bảy Mẫu (xã Cẩm Thanh, TP Hội An, Quảng Nam). 
Từng một thời che chở hàng ngàn chiến sĩ cách mạng, ngày nay chính rừng dừa ấy lại góp phần tạo nên làng nghề nổi tiếng, những sản phẩm từ cây dừa tạo cho những người này này một cuộc sống khá giả, không những thế bây giờ nó là một điểm đến quen thuộc của du khách trong và ngoài nước.


Làng nghề truyền thống

Đặt chân đến đây, ấn tượng đầu tiên để lại trong lòng du khách chính là sự bình yên. Không ồn ào, xô bồ so với một số làng nghề truyền thống khác, làng làm tranh dừa Cẩm Thanh nằm tách biệt như một bán đảo, tứ bề sông rạch chằng chịt, nhà cách nhà bởi những vạt dừa bốn mùa xanh um.



Vào làng, du khách thích thú với những tàu dừa phơi dọc hai bên đường như những tấm thảm trong ráng chiều. 


Đường vào làng uốn mình theo những nếp nhà tranh. Hai bên lối đi, những tàu dừa trải nằm dài như những tấm thảm trong ráng chiều. Đôi ba em bé chân trần an nhiên đạp xe dưới bóng mát tán dừa. Dulichgo

Đi sâu vào làng, từ phía những khoảnh đất trống ở mỗi dãy nhà hay ngay khu vực trung tâm làng, du khách sẽ dễ dàng nhận ra bên trong cái thanh bình có phần tĩnh lặng ấy là một làng nghề truyền thống lâu đời với những người thợ đang miệt mài từng công đoạn để cho cho ra đời một bức tranh dừa tuyệt đẹp với nét đặc trưng riêng.



Rừng dừa Bảy Mẫu - nguồn nguyên liệu dồi dào đã sinh ra và nuôi sống làng nghề tranh dừa. 


Theo các bậc cao niên trong làng, nghề làm tranh dừa Cẩm Thanh được hình thành cách đây hơn 200 năm, theo dấu chân của những lái buôn ghe bầu từ Nam bộ đến. Thuở ban đầu, cư dân đan dừa chỉ với mục đích làm tranh che nắng, che mưa. Dần dần, do nhu cầu làm nhà, nhiều gia đình đã bén duyên với nghề. Một thời, tranh dừa của làng theo những chuyến thuyền đi khắp miền đất nước.

Trải qua năm tháng tồn tại và phát triển, nghề truyền thống này cũng có lúc tưởng như lụi tàn, mai một do sự phát triển của nhiều vật liệu xây dựng mới với giá rẻ, bền ra đời thay thế dần vật liệu làm nhà bằng tranh dừa. Nhưng những năm gần đây, nhu cầu khôi phục, xây dựng mới các ngôi nhà truyền thống, hàng quán, hàng thủ công mỹ nghệ bằng chất liệu tranh dừa ngày càng nhiều, nhờ đó nghề truyền thống tranh dừa nước ở Cẩm Thanh đã có cơ hội khôi phục lại và phát triển.



Làng nghề nằm tách biệt như một bán đảo, tứ bề  sông rạch chằng chịt. 



Giữ niềm đam mê cho nghề

Tuy thực hiện các công đoạn bằng thủ công nhưng tranh dừa Cẩm Thanh luôn được thị trường trong Nam, ngoài Bắc đều ưa chuộng. Bên cạnh lý do người thợ nhiều kinh nghiệm lại rất thành thạo về kỹ thuật thì một nguyên nhân chính nữa đó là lòng yêu nghề. Tình yêu ấy được truyền cho cả thế hệ tương lai của làng. Trẻ con trong làng sinh ra đã nằm bên tấm tranh dừa để mẹ yên lòng miệt mài công việc. Lớn thêm vài tuổi đã biết phụ gia đình tước dừa, phơi dừa. Và đến khoảng 13, 14 tuổi nhiều em đã thành thạo nghề.Dulichgo

Nghề làm tranh dừa không chỉ là kế sinh nhai mà còn giúp người dân nơi đây giàu lên. Mỗi tấm tranh dừa có giá trên dưới 100.000 đồng/tấm, tùy độ rộng, hẹp. Mùa mưa bão, khi những mái tranh dừa bị gió thổi bạt, thì đơn đặt hàng đến với làng dừa càng tới tấp, hàng bán chạy không kịp sản xuất để bán.



Các công trình lợp tranh dừa vừa dân dã, vừa mát mẻ giúp du khách quên hết mệt mỏi mỗi khi đến thăm làng nghề tranh dừa Cẩm Thanh. 



Điểm đến du lịch

Sự tồn tại song song của nghề làm tranh dừa cùng với hệ sinh thái rừng dừa nước Cẩm Thanh đã tạo nên một không gian văn hóa thu hút du khách trong và ngoài nước đến nghiên cứu, tham quan, thưởng lãm. Đặc biệt, du khách đến với làng nghề bất kỳ thời điểm nào (trừ những ngày lũ lụt, nước sông dâng cao, làng phải ngưng nghề) đều có thể tận mắt chứng kiến hoặc trực tiếp tham gia, học hỏi từng công đoạn làm tranh dừa. 

Để cho ra đời những bức tranh dừa tuyệt đẹp phải trải qua rất nhiều công đoạn. Nặng nhọc nhất là khâu đốn dừa. Hằng năm, thợ làm tranh dừa  tiến hành khai thác tàu dừa vào những ngày giêng hai. Thợ đốn tất cả các tàu dừa già, chừa lại các nhánh non để nuôi tàu dừa con phát triển cho mùa sau. Dừa mang về sau khi tiến hành xé sẽ được mang đi phơi.



Người thợ dùng nẹp tre nẹp những mảnh lá lên nhau, độ thưa dày tùy theo mức giá và yêu cầu của khách. 


Thường người ta phơi dừa ở những khoảnh đất bằng phẳng để dừa không bị gãy, phơi khoảng mươi lăm nắng giòn đến khi khô trắng mới mang vào làm tranh. Tuy nhiên, người phơi cũng phải canh chừng để dừa không được quá khô gây giòn dễ gãy. Dulichgo

Đến công đoạn nứt tranh. Thợ có kinh nghiệm luôn nứt đường giữa trước. Công đoạn tiếp theo là nẹp tranh. Người thợ phải cứng tay, dùng nẹp tre nẹp những mảnh lá lên nhau, độ thưa dày tùy theo mức giá và yêu cầu của khách. Các nẹp tre được lấy từ những cây tre suôn dài nhất, ngâm nước chừng một năm để bảo đảm độ dẻo dai, cứng cáp, không bị mối mọt.



Du khách dạo chơi sông nước và tham quan làng tranh dừa Cẩm Thanh. 


Công đoạn khá quan trọng nữa là lụi tranh. Lụi tranh đòi hỏi tay thợ kỹ thuật cao. Người thợ luồng kết dây sao cho thật khéo léo để giữ tấm tranh  thẳng, đều. Công đoạn này quyết định hình thức tranh dừa đẹp hay xấu. Cuối cùng để tranh dừa trông đẹp hơn, người thợ phải  tỉ mỉ chặt phía đầu tranh cho đều. Tất cả các quy trình làm tranh dừa trên hoàn toàn bằng thủ công, nên khi đến với làng, khách như  tìm được một kho tư liệu sống.

Và tin chắc rằng, một ngày đến với Cẩm Thanh, du khách sẽ mến phục và luôn nhớ về đôi bàn tay khéo léo của những con người nơi rừng dừa Bảy Mẫu.

Điểm du lịch Hội An Lễ 30-4: Thánh địa Mỹ Sơn


Thánh địa Mỹ Sơn thuộc xã Duy Phú, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam, cách thành phố Đà Nẵng khoảng 69 km và cách thành cổ Trà Kiệu khoảng 20 km, là tổ hợp bao gồm nhiều đền đài Chăm Pa, trong một thung lũng đường kính khoảng 2 km, bao quanh bởi đồi núi. Đây từng là nơi tổ chức cúng tế của vương triều Chăm pa cũng như là lăng mộ của các vị vua Chăm pa hay hoàng thân, quốc thích. Thánh địa Mỹ Sơn được coi là một trong những trung tâm đền đài chính của Ấn Độ giáo ở khu vực Đông Nam Á và là di sản duy nhất của thể loại này tại Việt Nam.


Thánh địa
Thánh địa

Từ năm 1999, thánh địa Mỹ Sơn đã được UNESCO chọn là một trong các di sản thế giới tại phiên họp thứ 23 của Ủy ban di sản thế giới theo tiêu chuẩn C (II) như là một ví dụ điển hình về trao đổi văn hoá và theo tiêu chuẩn C (III) như là bằng chứng duy nhất của nền văn minh châu Á đã biến mất.

Mỹ Sơn có lẽ được bắt đầu xây dựng vào thế kỷ 4. Trong nhiều thế kỷ, thánh địa này được bổ sung thêm các ngọn tháp lớn nhỏ và đã trở thành khu di tích chính của văn hóa Chămpa tại Việt Nam. Ngoài chức năng hành lễ, giúp các vương triều tiếp cận với các thánh thần, Mỹ Sơn còn là trung tâm văn hóa và tín ngưỡng của các triều đại Chămpa và là nơi chôn cất các vị vua, thầy tu nhiều quyền lực. Những di vật đầu tiên được tìm thấy ghi dấu thời đại vua Bhadravarman I (Phạm Hồ Đạt) (trị vì từ năm 381 đến 413), vị vua đã xây dựng một thánh đường để thờ cúng linga và Shiva. Mỹ Sơn chịu ảnh hưởng rất lớn của Ấn Độ cả về kiến trúc - thể hiện ở các đền tháp đang chìm đắm trong huy hoàng quá khứ, và về văn hóa - thể hiện ở các dòng bia ký bằng chữ Phạn cổ trên các tấm bia.


D1
D1
Dựa trên các tấm bia văn tự khác, người ta biết nơi đây đã từng có một đền thờ đầu tiên được làm bằng gỗ vào thế kỷ 4. Hơn 2 thế kỷ sau đó, ngôi đền bị thiêu hủy trong một trận hỏa hoạn lớn. Vào đầu thế kỷ 7, vua Sambhuvarman (Phạm Phạn Chi) (trị vì từ năm 577 đến năm 629) đã dùng gạch để xây dựng lại ngôi đền còn tồn tại đến ngày nay (có lẽ sau khi dời đô từ Khu Lật về Trà Kiệu). Các triều vua sau đó tiếp tục tu sửa lại các đền tháp cũ và xây dựng các đền tháp mới để thờ các vị thần. Gạch là vật liệu tốt để lưu giữ ký ức của một dân tộc kỳ bí và kỹ thuật xây dựng tháp của người Chàm cho tới nay vẫn còn là một điều bí ẩn. Người ta vẫn chưa tìm ra lời giải đáp thích hợp về chất liệu gắn kết, phương thức nung gạch và xây dựng.

Những ngọn tháp và lăng mộ có niên đại từ thế kỷ 7 đến thế kỷ 14, nhưng các kết quả khai quật cho thấy các vua Chăm đã được chôn cất ở đây từ thế kỷ 4. Tổng số công trình kiến trúc là trên 70 chiếc. Thánh địa Mỹ Sơn có thể là trung tâm tôn giáo và văn hóa của nhà nước Chăm pa khi thủ đô của quốc gia này là Trà Kiệu hay Đồng Dương.

Tại thánh địa Mỹ Sơn có một đền xây dựng bằng đá, nó cũng là đền đá duy nhất của các di tích Chăm. Văn bia tại Mỹ Sơn cho biết, đền này được trùng tu lần cuối cùng bằng đá vào năm 1234. Ngày nay, ngôi đền này đã bị sập (có lẽ do bom Mỹ trong chiến tranh Việt Nam, vì ngay sát tháp là một hố bom sâu hoắm vẫn dấu tích) nhưng hệ móng của nó cho thấy nó cao trên 30 m và đây là ngôi đền cao nhất của thánh địa này. Các tài liệu thu thập được xung quanh khu đền này cho thấy nhiều khả năng đây là vị trí của ngôi đền đầu tiên vào thế kỷ 4.

Với hơn 70 công trình kiến trúc bằng gạch đá, được xây dựng từ thế kỷ thứ 7 đến thế kỷ 13, Mỹ Sơn trở thành trung tâm kiến trúc quan trọng nhất của Vương quốc Champa. Những đền thờ chính ở Mỹ Sơn thờ một bộ Linga hoặc hình tượng của thần Siva - Đấng bảo hộ của các dòng vua Chămpa. Vị thần được tôn thờ ở Mỹ Sơn là Bhadrésvara, là vị vua đã sáng lập dòng vua đầu tiên của vùng Amaravati vào cuối thế kỷ 4 kết hợp với tên thần Siva, trở thành tín ngưỡng chính thờ thần - vua và tổ tiên hoàng tộc.

Bằng vật kiệu gạch nung và đá sa thạch, trong nhiều thế kỷ người Chăm đã dựng lên một quần thể kiến trúc đền tháp độc đáo, liên hoàn: Đền chính thờ Linga-Yoni biểu tượng của năng lực sáng tạo. Bên cạnh tháp chính (Kalan) là những tháp thờ nhiều vị thần khác hoặc thờ những vị vua đã mất.
 

Mặc dù thời gian cùng chiến tranh đã biến nhiều khu tháp thành phế tích nhưng những hiện vật điêu khắc, kiến trúc còn lại cho đến ngày nay vẫn còn để lại những phong cách giai đoạn lịch sử mỹ thuật dân tộc Chăm, những kiệt tác đánh dấu một thời huy loàng của văn hoá-kiến trúc Chăm Pa cũng như của Đông Nam Á.
Các tour liên quan:

Tour du lịch lễ 30-4: Quy Nhơn- Đà Nẵng- Huế- Hội An- Tuy Hòa- Nha Trang(7 ngày 7 đêm)


Điểm du lịch 30-4: Phố Cổ Hội An


Nếu bạn thích khám phá những miền đất cổ mang đậm nét văn hóa và đang phân vân điểm dừng chân kế tiếp là nơi đâu? Hội An là câu trả lời dành cho bạn đó. Đó là mảnh đất giàu truyền thống lịch sử cách mạng và văn hóa, từng được biết đến trên thương trường quốc tế với nhiều tên gọi khác nhau như Lâm ấp, Faifo Hoài Phố, Hội An… Do có đặc điểm địa lý thuận lợi nên từ hơn 2000 năm trước, mảnh đất này đã tồn tại và phát triển nhưng vẫn còn giữ lại nhiều nét hoang sơ như những ngày đầu tiên Hội An vừa mới được sinh ra

briefhistory1

Từ thế kỷ II đến XIV, Hội An thuộc đất Champa, với tên gọi Lâm ấp Phố, là cảng thị phát triển, thu hút nhiều thương gia Ả Rập, Ba Tư, Trung Quốc đến buôn bán, trao đổi vật phẩm.briefhistory2 Nhiều thư tịch cổ ghi nhận đã có một thời gian khá dài, Chiêm cảng – Lâm ấp Phố đóng một vai trò quan trọng trong việc tạo nên sự hưng thịnh của kinh thành Trà Kiệu và khu di tích đền tháp Mỹ Sơn. Những dấu tích nền tháp Chăm, giếng nước Chăm và những pho tượng Chăm còn lại cùng những mảnh gốm sứ Trung Quốc, Ðại Việt, Trung Ðông thế kỷ II-XIV được lấy lên từ lòng đất càng làm sáng tỏ một giả thiềt từng có một Lâm Ấp Phố (thời Chăm Pa) trước Hội An (thời Ðại Việt), từng tồn tại một Chiêm cảng với sự phát triển phồn thịnh.

Do những biến động của lịch sử, trong khoảng thời gian vài thế kỷ, vùng đất này cũng đã bị lãng quên. Nhờ môi trường sông nước thuận lợi, cộng với nhiều yếu tố nội, ngoại sinh khác, từ thế kỷ 16 đến thế kỷ 19, đô thị – thương cảng Hội An lại được tái sinh và phát triển thịnh vượng.
briefhistory3 Từ năm 1585 khi chúa Nguyễn Hoàng vào trấn thủ Thuận Hóa và Quảng Nam (năm 1570) cùng con trai là chúa Nguyễn Phúc Nguyên mở mang đất đai, phát triển kinh tế Đàng Trong thì Hội An trở thành một thương cảng quốc tế sầm uất của cả nước và cả khu vực Ðông Nam Á thời đó.Từ cuối thế kỷ 19, do chịu sự tác động của nhiều yếu tố bất lợi, “cảng thị thuyền buồm” Hội An suy thoái dần và mất hẳn, nhường vai trò lịch sử của mình cho ” cảng thị cơ khí trẻ”ớ Ðà Nẵng. Nhưng cũng nhờ đó, Hội An đã tránh khỏi được sự biến dạng của một thành thị trung – cận đại dưới tác động của đô thị hóa hiện đại để bảo tồn cho đến ngày nay một quần thể kiến trúc đô thị cổ hết sức độc đáo, tuyệt vời.
Trong suốt 117 năm kháng chiến chống ngoại xâm (1858 – 1975), hàng nghìn người dân Hội An đã ngã xuống cho độc lập và thống nhất đất nước. Nhiều địa phương và một số người trong số họ đã được phong tặng danh hiệu “An

briefhistory4

Vào ngày 22/8/1998, Hội An được nhà nước phong tặng danh hiệu “Anh hùng các lực lượng vũ trang nhân dân”. Hơn một năm sau, ngày 4 tháng 12 năm 1999, Tổ chức UNESCO đã ghi tên Hội An vào danh mục các di sản Văn hóa thế giới và vào ngày 24/8/2000. Hội An rất tự hào với danh hiệu cao quý “Di sản Văn hóa thế giới”. Trước vinh dự lớn đó, Hội An đã, đang và sẽ vẫn là một quần thể kiến trúc cổ, một đô thị cổ của Việt Nam và thế giới.

Quảng Nam- Thành Cổ Trà Kiệu

I. Địa điểm:

– Nhà thờ Núi Trà Kiệu, làng Trà Kiệu, xã Duy Sơn, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam. Nằm bên bờ sông Thu Bồn, cách thành phố Ðà Nẵng khoảng 45 km về phía tây nam, cách thị trấn Nam Phước 9 km, cách Thánh Địa Mỹ Sơn 10 km về phía Tây. Trước năm 1975 nhiều người còn gọi tên Trà Kiệu là hòn Bửu Châu.

– Đường đi đến: từ ngã ba Nam Phước ( Thị trấn Nam Phước, huyện Duy Xuyên ) đi theo đường 537 khoảng 9 km sẽ đến di tích Kinh đô Trà Kiệu nay là Nhà thờ Núi Trà Kiệu.
– Loại đường giao thông: đường nhựa.
– Phương tiện giao thông tối đa có thể đi đến: xe ô tô 50 chỗ
Diện tích làng Trà Kiệu:Hơn 10 000 ha

II. Khởi Nguyên

Trà Kiệu là nơi đặt kinh đô của vương quốc Lâm Ấp từ khoảng năm 605 đến năm 757, với tên gọi là Simhapura. Simhapura là kinh đô của tiểu quốc Avamarati một trong 5 tiểu quốc của vương quốc Champa và người đặt đô đầu tiên ở đây là vua thứ 9 Vikrantavacman II, thuộc dòng Gangaraja trị vì từ thế kỉ 3 đến giữa thế kỉ 8. Trà Kiệu mang hình bóng kinh đô cổ xưa về vương quốc Chămpa (hay còn gọi là Lâm ấp) nằm trên bờ sông Thu Bồn, ngày nay chỉ còn lại những chân móng tường thành sụp đổ bị chôn vùi trong đất đá hoặc cô đọng lại trong vài trang sử nhỏ.

1. Tích sự về Chiêm Động

Vắn tắt: 

Phải tính từ cuối thế kỷ thứ II sau công nguyên thì dân tộc Chàm sống dọc theo miền trung nước ta ngày nay. Lúc này ranh giới phía Bắc giáp với Giao Châu, phía nam giáp với Tây cống (Thủy chân lạp) vào năm 192 cuối đời nhà Hán có người huyện này tên là khu liên, nổi lên chống trả lại triều đình giết huyện lệnh rồi được người chiêm tôn làm vua đặt tên nước là lâm ấp (tức Champa) địa danh này nằm ở phía nam giao châu. Sau này cháu ngoại là Phạm Hùng kế vị.
Năm 353 thứ sử Giao châu đánh vua Lâm ấp là Phạm Phật – năm 420 Đỗ tuệ độ cất binh đánh Lâm ấp bắt quy hàng. – năm 433 vua Lâm ấp là Phạm dương mại thấy nhà Tống nội chiến phân tranh nam Bắc bị suy yếu chánh sự nên cất binh đánh phá Nhật nam & Cửu chân, Vua tống sai Đoàn hòa chí đánh trả và diệt vong gần hết 1 tiểu vương quốc của Lâm ấp. Từ năm 605 đời nhà tùy giao chiến mãi đến năm Trinh quan đời nhà đường (vua Thái tông), Vua Lâm ấp là Phạm đầu lê và con Phạm tấn Long mất nên Lâm ấp lập con của bà Cô là Chư cát địa lên làm Vua đổi tên nước là Hoàn vương quốc. Mãi đến năm Mậu Tý 808 Trương Chu cất binh đánh hoàn vương quốc giết hại rất nhiều nên vua hoàn vương yếu thế rút lui vào phía nam (vùng TRÀ BÀN đổi tên nước là Chiêm thành, nơi đây SIMHAPURA (Sư tử thành) được chọn là kinh đô đệ nhất đế.
Đây là Kinh thành tráng lệ nằm trong tiểu vương quốc Amaravati là 1 tiểu vương quốc hùng mạnh nhất trong 5 tiểu vương quốc champa lúc bấy giờ trải gần một thiên niên kỷ, bởi vậy mới có câu: “Điện các huy hoàng trong ánh nắng. Đền đài tuyệt mỹ dưới trời xanh” Cho đến đời vua Viạya Cri (998 – 1009) thì dời vào đồ bàn đến đây Simhapura được dân gian gọi là Chiêm động, từ lúc đó dân gian quanh vùng ai cũng sợ những vị thần bảo vệ vương quyền của vương quốc champa còn trú ngụ nên không ai lui tới nữa tức TRÀ KIỆU NGÀY NAY . Sau này có nhiều giòng tộc theo Thiên Chúa giáo vào ở ngay trên Simhapura và dần dần đông đúc lập nên nhà thờ Trà Kiệu… Ở miền đất này có đài kính Đức Maria ngay trên đồi Bửu Châu (Vương cung thánh đường Đức Maria)
2. Lịch Sử 

Thể theo Thủy Kinh Chú của Lý Đạo Nguyên người Bắc Ngụy viết vào thế kỷ thứ 7, kinh thành Sư tử được mô tả khá hấp dẫn: “Thành ấy ở phía tây khúc sông là kinh đô Lâm ấp, lập ở Điển Xung, cách bờ biển 40 dặm. Về phía tây nam giáp núi, phía đông bắc trông ra sông. Nhiều lớp hào bao quanh chân thành, và bên ngoài các hào về phía đông nam sông chảy men bờ thành. Bề đông tây của thành thì dài, bề nam bắc thì hẹp. Phía bắc, sông uốn khúc chảy từ đông tây vào thành. Chu vi 8 lý 120 bộ. Thành xây gạch cao 2 trượng, trên thành có tư-ờng gạch cao 1 trượng, trổ lổ vuông, trên dựng ván, trên ván có gác cất lên, trên gác có mái, trên mái có lầu, lầu cao thì sáu, bảy trượng; lầu thấp thì bốn, năm trượng… Cách kiến trúc mạnh nhưng vụng… Trong thành lại có thành nhỏ chu vi 230 bộ. Nhà họp và điện ngồi đều không trổ cửa về phương nam…”. (Trích Quảng Nam – Đà Nẵng NXB Văn học năm 1983).

Sau chính biến năm 1470 giữa vương quốc Champa và Đại Việt, vua Lê Thánh Tông đã đặt mốc biên giới tại Thạch Bi sơn, và cùng với đó là làn sóng di cư của những người Việt vào Nam theo đà nam tiến. Vào năm 1623, Trà Kiệu đã được một số người tình nguyện di dân ở các vùng chung quanh chọn để tới khai hoang lập ấp.
Theo nhiều nhà nghiên cứu thì tên Trà Kiệu được xuất phát từ cách gọi Chùm Chà chỉ những người Chiêm Thành. Chữ Chà phía sau đọc trại thành Trà còn chữ Kiệu có thể hiểu rằng người ở nơi xa đến, ý chỉ những người đàng Ngoài vào lập nghiệp tại vùng đất này.
Để xác minh dấu vết của kinh thành có đúng như Thủy Kinh Chú miêu tả hay không, năm 1927 – 1928 dưới sự chỉ đạo của nhà khảo cổ học J.Y Claeys, trường Viễn Đông Bác cổ của Pháp ở Hà Nội (école Francaise Extrême Orient) đã tiến hành cuộc khai quật khảo cổ học lớn nhất gần mười tháng trời. Điều xác tín qua cuộc khai quật này hoàn toàn nhất trí với những điều được bộ sử cổ ghi chép về kinh thành Sư tử cổ xưa trên đất Trà Kiệu. Căn cứ vào nền móng phát hiện, Sinapura có chu vi khoảng 4km, thành phía tây dài 1700m, thành phía tây bắc – đông nam dài 500m. Mặt trước tòa thành, hư¬ớng về đông có nhiều công trình kiến trúc ngự trên ngọn đồi cao 10m. Phía bắc thành, đoạn sông Bà Rén làm thành rào bảo vệ vòng ngoài. Ở điểm cao khoảng trên 20m là ngọn đồi Bửu Châu án ngữ. Xưa kia đường lên đồi là những bậc thềm lót đá đư¬ợc trang trí thêm nhiều tượng thú vật, nhiều nhất là tượng voi, sư tử đứng chầu. Các pho tượng này, ngày nay đã được đưa đến khuôn viên nhà thờ công giáo Trà Kiệu, một số được chuyển về Bảo tàng Chàm Đà Nẵng. Phía nam thành, dựa hẳn vào nhiều quả đồi sa thạch. Phía tây có suối đổ về, trên ngọn con suối này còn sót lại ngọn tháp đẹp có tên là tháp Chiêm Sơn. Tiếc thay ngọn tháp này cũng bị hủy hoại.
Sau cuộc khai quật một phần kinh đô cổ Trà Kiệu của Claeys vào các năm 1927 – 1928, nhưng tầng văn hóa dưới lòng đất Trà Kiệu lại ngủ yên suốt hơn nửa thế kỷ. Từ thập niên 90 đến nay những nhát cuốc của các nhà khảo cổ đã rộn ràng đánh thức những di chỉ văn hóa ẩn chìm dưới lòng đất. Ngoài các di chỉ văn hóa Chăm, vùng đế đô xưa một thời vang bóng này còn chứa các di chỉ văn hóa Sa Huỳnh đầy lôi cuốn với những ai muốn soi rọi lại một phần quá khứ của hàng nghìn năm trước.
Vào những năm 1980, có nhiều những hiện vật nhỏ làm bằng vàng đã được khai quật. Chúng là những trang sức có hình mặt trăng, mặt trời, các vì sao, còn có cả những bức tượng thần rỗng ruột, tượng động vật và những cuốn sách thánh dày tạo bởi vàng lá dày 1cm khắc chữ Phạn và những miếng vàng hình tròn với những mẫu tự tiếng Ả Rập. Tổng sô vàng được tìm thấy lên đến vài kí. Điều này cho thấy sự giàu có, trù phú của thành Sinhapura trong thời kì phát triển thịnh vượng nhất từ thế kỉ thứ 4 đến thế kỉ thứ 10.
Về điêu khắc đá của Simhapura cổ xưa có thể tìm thấy hình bóng rực rỡ của nó qua phòng chính giữa của Bảo tàng Chàm Đà Nẵng. Đây là thời cực thịnh của Vương quốc Chămpa từ thế kỷ thứ 4 đến thế kỷ thứ 10 – 12 mà cả thành đô Mỹ Sơn và kinh đô Trà Kiệu đều là minh chứng lịch sử nổi bật nhất. Nói đến Simhapura, trước đây người ta thường nói đến ngôi đền chính trong Hoàng thành. Mỗi cạnh của nó dài tới 10m, chiều cao có thể lên tới 40m. Nếu còn đến ngày nay, rõ ràng đây là ngôi tháp đồ sộ nhất trong hàng kiến trúc Chămpa ở vùng Đông Nam Á. Trong đền tháp này có một cái bàn thờ lớn hình vuông, mỗi cạnh 3m, cao 1,50m. Trên đó tạo 12 vũ nữ Apsara đứng múa trước dài sen. Bàn thờ đó đã trở thành kiệt tác trong điêu khắc cổ xưa của thế giới còn lại tới hôm nay.
Tất cả các đền thờ ở kinh đô Trà Kiệu đều thờ thần Siva và Visnu là hai chư thần bảo hộ cho các Vương triều Chămpa lúc bấy giờ. Chủ đề nổi bật của Trà Kiệu – Kinh thành Sư tử là các tượng đá Sư tử với nhiều tư thế sống động : đi, đứng, ngồi, nằm phủ phục, vươn mình, nhe nanh… mỗi tượng đều có bố cục độc đáo từ hình khối đến sắc thái biểu cảm trên đôi mắt, khối ngực, bước chân khỏe khoắn, dáng đứng oai vệ… Mặt khác đây là sự hóa thân công đức của Visnu, vì có lần đấng tối thượng này hóa thành Sư tử để bảo vệ loài người, bảo vệ chư thần thoát khỏi nanh vuốt của quỷ dữ. Cũng qua những di chỉ tìm được trong các cuộc khai quật khảo cổ sau này, người ta đã hình dung được vẻ đẹp kỳ lạ của các kiến trúc Chăm về đền đài, cung điện, lâu đài, thành quách… đã làm cho kinh đô Trà Kiệu thêm hấp dẫn để trở thành trung tâm giao lưu kinh tế – văn hóa của Vương quốc Chămpa với các nước láng giềng như Cămpuchia, Inđônnêxia hồi bấy giờ
III. Nét hấp dẫn

Kinh đô Trà Kiệu là một tổng thể không thể thiếu được trong nền văn minh , văn hóa Á Đông nhất là văn minh Champa là : Kinh đô – Lăng Miếu , Thánh địa , Đền đài để thờ cúng các tiên vương, chư thần…Theo nghiên cứu của GS.TS Trần Quốc Tý, nếu du khách nhìn từ Cù Lao Chàm- nhà thờ Trà Kiệu – và thánh địa Mỹ Sơn là nằm trên một đường thẳng theo đường chim bay. Đây là một phát hiện vô cùng lí thú.

Cho đến nay, giới khảo cổ và sử học đã tìm thấy nhiều di tích đền, tượng, bệ thờ, tường thành, đồ gốm, bia kí và nhiều bức phù điêu tại Trà Kiệu, trong đó nổi tiếng nhất là bức chạm “Vũ nữ Trà Kiệu”. Tất cả những hiện vật này một phần được mang về Bảo tàng điêu khắc Chăm tại Đà Nẵng, số còn lại du khách có thể chiêm ngưỡng tại một cửa hàng đồ lưu niệm đặt trong khuôn viên Nhà thờ Trà Kiệu như ghi nhận những phồn thịnh và lưu giữ những hình ảnh đẹp kì lạ về dấu tích điêu khắc Chăm một thời tại Trà Kiệu.
Ngày nay tại Trà Kiệu, một nhà thờ thiên chúa giáo đã được xây dựng trên ngọn đồi Bửu Châu. Nó được xây dựng trên nền của một tháp Chăm. Đứng ở đây chúng ta sẽ có được một cái nhìn toàn cảnh thung lũng Trà Kiệu với những cánh đồng màu mỡ và một bức tường thành dài hơn 1000 m, một di tích bên trong cung điện đã được miêu tả như trong Thủy Kinh Chú của Trung Quốc. Từ đỉnh đồi chúng ta có thể thấy đỉnh núi Mỹ Sơn ở phía Tây và Cù Lao Chàm về phía Đông . Từ đây chúng còn thấy được địa hình thuận lợi và những phong cảnh đẹp mà người Chăm đã chọn để xây dựng thủ đô của mình.

Trà Kiệu ngày nay lại được chọn là Trung Tâm Thánh Mẫu. Hằng năm, cứ vào ngày 31 tháng năm, lại có hàng vạn người, cả lương lẫn giáo, từ các tỉnh miền Trung tấp nập kéo nhau về đây cầu nguyện và xin ơn Đức Mẹ.

IV. Du lịch

– Hiện nay tại Trà Kiệu còn rất nhiều di tích vẫn chưa được tìm thấy. Trong tương lai cần phải có nhiều cuộc khai quật nữa mới có thể thấy được sự vĩ đại của thành Simhapura.

- Hiện bờ tường thành dài gần 1 km còn sót lại của di tích thành Trà Kiệu đang đứng trước nguy cơ biến mất do sự thiếu ý thức bảo vệ của cư dân địa phương và tác động của thời tiết. Do đó cần có sự quan tâm đúng mức trong công tác bảo vệ di tích kiến trúc này.
- Lập một bảo tàng trưng bày các hiện vật khai quật được ở đây và tái hiện hình ảnh của Kinh đô xưa, để du khách khi tham quan có thể chiêm ngưỡng và tìm hiểu về lịch sử và văn hóa của người Chăm. Đồng thời tạo nên một sản phẩm du lịch mới trên tuyến thăm quan di sản văn hóa thế giới Mỹ Sơn.

Phố Cổ Hội An



I. Sơ lược về phố cổ Hội An   

Biểu tượng của Phố cổ Hội AnPhố cổ Hội An là một cảng thị truyền thống Đông Nam Á duy nhất ở Việt nam, hiếm có trên thế giới, một đô thị cổ nằm ở hạ lưu sông Thu Bồn, thuộc vùng đồng bằng ven biển tỉnh Quảng Nam, Việt Nam, cách thành phố Đà Nẵng khoảng 30 km về phía Nam. Hội An từng là một thương cảng quốc tế sầm uất, nơi gặp gỡ của những thuyền buôn từ khắp nơi trên thế giới trong suốt thế kỷ 17 và 18. Đến thế kỷ 19, do giao thông đường thủy ở đây không còn thuận tiện, cảng Hội An dần suy thoái, nhường chỗ cho cảng Đà Nẵng khi đó đang được Pháp xây dựng.



    Ảnh phố cổ Hội An ngày xưa
    Phố cổ Hội An xưa...
    Hội An may mắn không bị tàn phá bởi các cuộc chiến tranh và tránh được quá trình đô thị hóa ồ ạt cuối thế kỷ 20, nhờ đó nơi đây giữ được gần như nguyên vẹn hơn một nghìn di tích kiến trúc như phố xá, nhà cửa, hội quán, đình, chùa, miếu, nhà thờ tộc, giếng cổ, mộ cổ... Các kiến trúc vừa có sắc thái nghệ thuật truyền thống của Việt Nam, vừa thể hiện sự giao lưu hội nhập văn hoá với các nước phương Đông và phương Tây. Trải qua nhiều thế kỷ, những phong tục tập quán, nghi lễ, sinh hoạt văn hoá, tín ngưỡng cũng như các món ăn truyền thống vẫn lưu giữ, bảo tồn cùng với bao thế hệ người dân phố cổ. Ngoài ra Hội An còn có một môi trường thiên nhiên trong lành, êm ả với những làng nhỏ ngoại ô xinh xắn, có nghề thủ công như mộc, làm đồ đồng, gốm…
    Ảnh phố cổ Hội An ngày nay
    và nay
    Bắt đầu từ những năm 80 của thế kỷ trước, những giá trị kiến trúc và văn hóa của phố cổ Hội An dần được giới học giả và cả du khách chú ý, khiến nơi đây trở thành một trong những điểm du lịch hấp dẫn đối với du khách Việt Nam và quốc tế.

    Với những giá trị nổi bật, Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên Hiệp Quốc (UNESCO) đã công nhận đô thị cổ Hội An là một di sản văn hóa thế giới vào năm 1999 dựa trên hai tiêu chí:
    • Hội An là biểu hiện vật thể nổi bật của sự kết hợp các nền văn hóa qua các thời kỳ trong một thương cảng quốc tế.
    • Hội An là điển hình tiêu biểu về một cảng thị châu Á truyền thống được bảo tồn một cách hoàn hảo.

      II. Những điểm tham quan hấp dẫn
      1. Chùa Cầu (còn gọi là cầu Nhật Bản hay Lai Viễn Kiều - Nối đường Nguyễn Thị Minh Khai và đường Trần Phú)một nét kiến trúc thanh tú của người Nhật đã tạo thêm vẻ duyên dáng cho Hội an. Như một số chùa xưa còn tồn tại ở nhiều vùng nông thôn Nhật Bản, chùa Cầu có mái che uốn cong mềm mại, mặt cầu cong vồng lên quãng giữa. Ngoài những phần chạm trổ tinh vi, hai đầu cầu còn có bốn tượng thú đứng hầu, trong chùa là tượng Bắc đế cưỡi con câu long. Không chỉ ghi dấu ấn của người Nhật ở Hội An, chùa Cầu còn được chọn làm biểu tượng cho đô thị cổ này.
      Chùa cầu - biểu tượng của Hội An
      Chùa Cầu - biểu tượng của phổ cổ Hội An
      2. Các hội quán của người Hoa. Khi nhà Thanh thay thế nhà Minh, nhiều người Hoa phải bỏ xứ ra đi, họ tỏa về Đông Nam Á và Hội An là một điểm dừng. Những ngôi chùa và hội quán theo kiến trúc Hoa được dựng lên ở đây để họ đỡ nhớ quê và để tạ ơn một chuyến đi được thuận buồm xuôi gió. Tiêu biểu trong số các hội quán có: 
      • Hội quán Phúc Kiến (46 đường Trần Phú) với cây cảnh ngát xanh và những tầng kiến trúc uy nghi, là một trong những nơi được sự chiếu cố đặc biệt của khách vãng lai lẫn người địa phương. Được dựng lên từ thế kỷ 17, trùng tu vào cuối thế kỷ 18, đặc biệt, chùa còn thờ bà chúa Thai Sanh là bà tổ của những bà mụ đỡ đẻ trong dân gian. 
        Hội quán Phúc Kiến Hội An
        Mặt tiền Hội quán Phúc Kiến
      • Hội quán Quảng Đông (còn được gọi là chùa Ông - 176 đường Trần Phú) thờ Quan Công (Quan Vũ). 
      • Hội Quán Trung Hoa (còn gọi là Hội quán Ngũ Bang - 64 đường Trần Phú) thờ bà Thiên Hậu. 
      • Hội quán Hải Nam (10 đường Trần Phú) thờ 108 Hoa kiều chết oan dưới thời vua Tự Đức. 
      • Hội quán Triều Châu (hay còn gọi là chùa ông Bổn - 157 đường Nguyễn Duy Hiệu), hội quán nhỏ, xây dựng tỉ mỉ, khởi công năm 1845 với vật liệu đưa từ Trung Quốc sang, là miếu thờ Phục Ba tướng quân.


      3. Các nhà cổ. Những ngôi nhà cổ Hội An là sự đan quyện tài tình, sự hội nhập hài hòa các phong cách kiến trúc Việt - Hoa - Nhật - Pháp. Bàn tay tài hoa của các lớp thế hệ nghệ nhân đã dày công tạo dựng, pha trộn những kiến thức trang trí nội thất bằng cách sắp xếp hợp lý các cấu kiện kiến trúc, bố cục không gian và bằng cách thể hiện sinh động của các mô típ hoa văn. 
      • Nhà cổ Quân Thắng (77 đường Trần Phú) Là một trong những nhà cổ được đánh giá đẹp nhất Hội An hiện nay. Ngôi nhà có niên đại hơn 150 năm, mang phong cách kiến trúc vùng Hoa Hạ Trung Hoa. Qua năm tháng, ngôi nhà vẫn được bảo tồn khá nguyên trạng về kiểu dáng kiến trúc và các bài trí nội thất, giúp ta hình dung được phần nào lối sống của các thế hệ chủ nhân, những người thuộc tầng lớp thương gia ở thương cảng Hội An trước đây.
      Nhà cổ Quân Thắng
      Nhà cổ Quân Thắng
      • Nhà cổ Tấn ký (10 đường Nguyễn Thái Học) Ðược xây dựng cách đây gần 200 năm, nhà Tấn Ký có kiểu kiến trúc đặc trưng của nhà phố Hội An với nội thất chia làm nhiều gian, mỗi gian có chức năng riêng. Mặt tiền nhà là nơi để mở cửa hiệu buôn bán, mặt sau thông với bến sông để làm nơi xuất nhập hàng hóa. 
      Nhà Cổ Tấn Ký
      Nhà cổ Tấn Ký
      • Nhà cổ Phùng Hưng (04 đường Nguyễn Thị Minh Khai) với tuổi thọ hơn 100 năm, nhà Phùng Hưng có kết cấu độc đáo với phần gác cao bằng gỗ và các hành lang rộng bao quanh, thể hiện sự phát triển về kiến trúc và sự giao lưu giữa các phong cách kiến trúc Á Đông tại Hội An trong các thế kỷ trước đây.
        Nhà cổ phùng hưng
        Nhà cổ Phùng Hưng

      4. Các nhà thờ tộc là nơi dành cho tất cả các thành viên trong gia tộc tụ họp, thờ cúng tổ tiên. Những ngôi nhà phản ánh rõ phong cách sống của các tầng lớp quí tộc Việt Nam và cho ta thấy những giá trị truyền thống còn hiện diện rất rõ. Tiêu biểu cho các nhà thờ tộc có:
      • Nhà thờ tộc Trần (21 đường Lê Lợi) do một vị quan họ Trần (một dòng họ lớn từ Trung Hoa di cư đến Hội An vào những năm 1700) xây dựng năm 1802 theo những nguyên tắc phong thuỷ truyền thống của người Trung Hoa và người Việt. Tọa lạc trên một khu đất rộng khoảng 1500 m2, nhà thờ cổ tộc Trần ở Hội An là nhà thờ cổ mang phong cách nhà thờ tộc của người Việt từ ngàn xưa còn nguyên vẹn hình thể kiến trúc cổ.
      Nhà thờ tộc Trần
      Nhà thờ tộc Trần
      • Nhà thờ tộc Trương (69/1 Phan Châu Trinh) do một hậu duệ của dòng họ Trương (di cư từ Trung Quốc sang từ giữa thế kỷ 18) xây dựng vào năm 1840. Nhà thờ bao gồm các phần nhà ở sinh hoạt, nhà thờ tộc và cổng. Khu nhà phục vụ cho mục đích sinh hoạt được che bởi các bức vách bằng tre. Di tích này đã được bảo tồn rất tốt và được tu bổ vào năm 2002. Nhà thờ tộc Trương đã vinh dự UNESCO khu vực châu Á – Thái Bình Dương tặng Giải thưởng Công trạng (Award of Merit) vào năm 2004.

        5. Quan âm phật tự Minh Hương (07 đường Nguyễn Huệ) là ngôi chùa thờ Phật duy nhất còn lại giữa khu phố cổ, có kiến trúc và cảnh quan xinh đẹp đồng thời còn lưu giữ gần như nguyên vẹn các tác phẩm điêu khắc gỗ đặc sắc do các nghệ nhân làng mộc Kim Bồng thực hiện. Chùa thờ Phật Quan Thế Âm Bồ Tát và một số chư vị Phật, Bồ Tát khác, vì vậy trong những ngày lễ, ngày rằm thường có rất nhiều người đến cúng bái.
        Quan âm phật tự Minh Hương
        Chánh điện quan âm phật tự Minh Hương


        6. Các bảo tàng:
        • Bảo tàng Lịch sử – Văn hóa (13 đường Nguyễn Huệ) được thành lập vào năm 1989, trưng bày hơn 200 hiện vật gốc và tư liệu có giá trị bằng gốm, sứ, đồng, sắt, giấy, gỗ…phản ánh các giai đoạn phát triển của đô thị - thương cảng Hội An từ thời kỳ văn hoá Sa Huỳnh đến thời kỳ văn hoá Chăm và văn hoá Đại Việt, Đại Nam. Đến thăm Bảo tàng Lịch sử – Văn hoá Hội An, du khách sẽ có được cái nhìn tổng quát về tiến trình lịch sử cũng như bề dày văn hoá của đô thị cổ.
          Bảo tàng lịch sử - văn hóa
          Một góc trưng bày bảo tàng lịch sử - văn hóa Hội An
        • Bảo tàng gốm sứ Mậu Dịch (80 đường Trần Phú) được xây dựng vào năm 1995, lưu giữ trên 400 hiện vật gốm sứ có niên đại từ thế kỷ 8 đến thế kỷ 18. Các hiện vật là gốm sứ mậu dịch có nguồn gốc từ khắp các nền văn hóa trên thế giới… minh chứng cho vai trò quan trọng của thương cảng Hội An trong mạng lưới mậu dịch gốm sứ trên biển vào các thế kỷ trước, đồng thời cũng cho thấy quan hệ giao lưu văn hoá- kinh tế quốc tế đã từng diễn ra rất mạnh mẽ ở Hội An.
        Bảo tàng gốm sứ mậu dịch
        Một vài hiện vật tại bảo tàng gốm sứ Mậu Dịch
        • Bảo tàng văn hóa Sa Huỳnh (149 đường Trần Phú) trưng bày 216 hiện vật văn hoá Sa Huỳnh có niên đại trên dưới 2000 năm được phát hiện qua các đợt khảo sát, khai quật khảo cổ học. Qua đó cung cấp những thông tin phong phú về cư dân cổ thuộc hệ văn hoá Sa Huỳnh – chủ nhân cảng thị Hội An sơ khai từng có quan hệ giao lưu Trung Hoa, Ấn Độ và các quốc gia Đông Nam Á. Các hiện vật tại bảo tàng được đánh giá là bộ sưu tập độc đáo nhất Việt Nam hiện nay về văn hoá Sa Huỳnh.
        Bảo tàng văn hóa Sa Huỳnh
        Một góc trưng bày tại bảo tàng văn hóa Sa Huỳnh

          7. Xưởng thủ công mỹ nghệ Hội An (09 Nguyễn Thái Học) là nơi quy tụ hầu hết các ngành nghề thủ công truyền thống của Hội An và Quảng Nam như dệt chiếu, dệt vải, gốm, sơn mài… Vào thăm xưởng, du khách sẽ được tận mắt chứng kiến đôi bàn tay khéo léo của các nghệ nhân tạo nên những sản phẩm mỹ nghệ tinh xảo và đặc sắc. Du khách có thể tham gia một vài khâu trong quá trình sản xuất của các nghề và mua một vài sản phẩm về làm kỷ niệm.
          Xưởng thủ công mỹ nghệ hội an
          Một góc xưởng thủ công mỹ nghệ Hội An
          III. Các đặc sản Hội An

          1. Mì cao lầu là món ăn đặc sản của thành phố Hội An. Món mỳ này có sợi mỳ màu vàng, được dùng với tôm, thịt heo, các loại rau sống và rất ít nước dùng. Sợi mỳ cao lầu được chế biến rất công phu, sử dụng những nguyên liệu chỉ có ở Hội An đó là tro củi lấy ở tận Cù Lao Chàm, đảo cách Hội An 16 km, và nước ở giếng Bá Lễ do người Chăm đào cách đây cả ngàn năm.
          Mỳ Cao Lầu đặc sản Hội An
          Cao Lầu - đặc sản Phố Hội
          2. Mì Quảng Cũng gần giống như Cao lầu, là món ngon nổi tiếng của vùng đất Quảng Nam và rất hay bị nhầm với Cao lầu nhưng chỉ cần nếm thử một lần thôi, bạn sẽ thấy đây là hai món ăn khác biệt hoàn toàn. Mỳ Quảng thường được ăn cùng với tôm, thịt, trứng cút… tất cả đều ngấm gia vị thấm thía. Khi ăn cũng không thể thiếu bánh tráng nướng giòn và các loại rau ăn kèm.
          Mì Quảng
          Mì Quảng - Món ngon nổi tiếng của vùng đất Quảng Nam
          3. Bánh tráng đập một món ngon nổi tiếng của Hội An. Hai lớp bánh tráng nướng rất mỏng mỏng, giòn tan kẹp lấy một lớp bánh ướt. Để thưởng thức, bạn phải dùng tay đập cho lớp bánh tráng nướng vụn ra, dính quyện vào lớp bánh ướt. Khi ăn bánh tráng đập, bạn sẽ cảm nhận được vị ngọt của bánh tráng, đậm đà của mắm nhĩ, cay nồng của ớt và một chút thơm hơi béo của tỏi. 
          Bánh tráng đập
          Bánh tráng đập ăn cùng hến trộn
          4. Cơm gà phố Hội là món ăn mà bạn không nên bỏ qua khi đến đô thị cổ này. Gạo để nấu cơm gà là loại gạo ngon, thơm và dẻo, được lựa chọn kỹ lưỡng, ướp gia vị rồi nấu với nước luộc gà và lá dứa bằng lò củi. Gà được dùng là loại gà ta còn tơ, thịt mềm mà không bở, chắc mà không dai, da mỏng thịt thơm. Sau khi luộc, thịt gà được xé nhỏ ra rồi bóp với hành tây, hành phi, muối tiêu và rau răm. Cơm gà Hội An thường được ăn với hành tây, đu đủ chua, rau thơm Trà Quế, nước tương và tương ớt. Ngoài ra, còn có một chén súp trộn tim, gan, cật gà ăn kèm.
          Cơm gà phố hội - món ăn bạn không nên bỏ qua khi đến Hội An
          5. Bánh bao - bánh vạc là hai loại bánh có nguyên liệu, cách làm gần giống nhau và thường được ăn cùng trên một đĩa bánh. Nguyên liệu chính để chế biến hai loại bánh này là gạo, loại gạo thật trắng, nguyên hạt, dẻo, thơm. Nhân bánh vạc được làm từ tôm đất giã nhuyễn trộn với một ít tiêu, tỏi, hành, sả cùng những gia vị bí truyền. Nhân bánh bao được làm từ thịt heo, nấm mèo, hành lá thái mỏng rồi cũng xào cùng gia vị bí truyền đó. Có lẽ phần gia vị này cũng là một nguyên nhân khiến bánh bao – bánh vạc chỉ có thể ăn ngon ở Hội An.
          Bánh bao - bánh vạc
          6. Chè bắp – một món ăn dân dã trở nên rất nổi tiếng ở Hội An bởi nó được chế biến từ bắp Cẩm Nam ngon có tiếng của xứ Hội. Chè có vị ngọt, thơm thanh tao và tự nhiên của bắp mới bẻ. 
          Chè Bắp
          Chè bắp - món ăn dân dã nổi tiếng ở Hội An
          7. Bánh bèo Hội An. Bánh có màu trắng đẹp mắt, được chiên từ cao lầu (món ăn đã nói ở trên) nên có độ dẻo vừa phải, ăn rất ngon. Nhân bánh được nấu ướt từ tôm tươi, thêm chút ớt, màu sắc rất bắt mắt. Ngoài ra còn có hành tây phi dầu vàng vừa đủ, không quá cháy, ăn kèm bánh rất thơm.
          Bánh Bèo Hội An
          Bánh Bèo Hội An
          8. Hoành thánh. Người Hội An đã đưa món này thành món ăn đặc trưng của xứ mình, vỏ hoành thánh rán giòn với xốt chua cay, miếng hoành thánh giòn rụm vừa giống miếng pizza lại vừa giống viên hoành thánh. Một sự kết hợp hoàn hảo giữa Đông và Tây. 
          Hoành thánh - món ăn đặc trưng phố Hội
          Hoành thánh - món ăn đặc trưng của phố Hội
          9. Bánh tráng ướt. Cũng gần giống với bánh cuốn nhưng thay vì là bánh tráng mỏng kèm với nhân mọc nhĩ thì ở Hội An, bánh tráng còn có thêm tôm chấy. Khi ăn, bánh được rưới thêm mỡ hành rất thơm và ăn kèm chả lụa (giò lụa).
          Bánh tráng ướt
          Bánh tráng ướt
          10. Bánh xèo Hội An là đặc sản chính hiệu của vùng đất phố Hội. Sự cuốn hút của món ăn này là nhờ vào vị giòn tan của bột gạo, vị béo bùi của nước cốt dừa, mùi thơm của bột nghệ hòa lẫn các loại rau thơm, bên cạnh đó chất đạm thường được sử dụng là thịt bò, tôm, mực. Bánh phải ăn nóng, tức làm đến đâu ăn đến đấy và khi ăn không dùng đũa, thìa mà chỉ dùng tay.
          Bánh xeo Hội An
          Bánh xèo Hội An - Đặc sản chính hiệu của phố Hội

          IV. Kinh nghiệm du lịch Phố cổ Hội An

          1. Bạn nên đến Hội An vào ngày 14 âm lịch hàng tháng. Vào ngày này, chính quyền Hội An tổ chức Lễ hội đêm rằm phố cổ (tổ chức lần đầu năm 1998). Trong dịp lễ hội, thời gian từ 17 đến 22 giờ, tất cả các ngôi nhà, hàng quán, tiệm ăn đều tắt điện, toàn bộ khu phố chìm trong ánh sáng của trăng rằm và những ngọn đèn lồng. Trên các con phố, những phương tiện giao thông tạm thời bị cấm, chỉ dành cho người đi bộ. Tại các điểm di tích, nhiều hoạt động ca nhạc, trò chơi dân gian, thi đấu cờ tướng, đánh bài chòi, thả hoa đăng... được tổ chức. Bạn sẽ được đắm mình vào không gian đô thị của thế kỷ trước, chắc chắn sẽ là một trải nghiệm khó quên.

          Đêm rằm phố cổ
          Nhà nhà treo đèn lồng trong đêm rằm phố cổ

          2. Bạn không nên đến Hội An trong thời gian từ tháng 8 đến tháng 12. Vì thời gian này Hội an đang trong mùa mưa, ảnh hưởng rất lớn đến chuyến du lịch của bạn.

          3. Bạn nên tận hưởng buổi sớm bình yên ở Hội An. Thành phố nhỏ xinh này rất đông khách và nóng nực vào ban ngày nên bạn chỉ có thể tìm thấy không gian tĩnh lặng, không khí mát mẻ, trong lành nơi đây vào buổi sáng sớm. 

          Sáng sớm ở Phố cổ Hội An
          Buổi sớm bình yên ở phố cổ Hội An

          4. Phố cổ Hội An rất đẹp về đêm. Bạn có thể đi dạo quanh những ngõ ngách thanh tịnh của khu phố. Đi giữa Hội An trong đêm đèn lồng mới thưởng lãm hết vẻ đẹp của phố cổ. Những mái nhà rêu phong, những con đường uốn lượn huyền ảo dưới ánh trăng...
          Đêm Hội An
          Hội An quyến rũ về đêm

          5.  Bạn có thể kết hợp tham quan biển Cửa Đại và đảo Cù Lao Chàm. 
          • Biển Cửa Đại nằm cách đô thị cổ Hội An 5km về hướng Đông. Đây là bãi tắm lý tưởng, có bãi cát trắng mịn, nước trong xanh, sóng nhỏ và luôn chan hòa ánh nắng.
          Biển Cửa Đại
          • Đảo Cù Lao Chàm là một địa điểm du lịch hấp dẫn có khí hậu quanh năm mát mẻ, hệ động thực vật phong phú, phong cảnh hữu tình, đặc biệt là nguồn hải sản và nguồn tài nguyên yến sào. Cù Lao Chàm còn là thiên đường của thú vui lặn biển, bởi đây là nơi có nhiều rạn san hô tập trung thành một “bảo tàng sống” tuyệt đẹp thuộc khu dự trữ sinh quyển thế giới.
          Đảo Cù Lao Chàm
          Một góc đảo Cù Lao Chàm
          Biển Cù Lao Chàm
          Rạn san hô biển Cù Lao Chàm
          Lặn Biển Cù Lao Chàm
          Các du khách lặn biển Cù Lao Chàm

            6. Cuối cùng, về hành trang. Bạn nên mang theo mũ nón, ô, kem chống nắng và nên có một chai nước luôn bên mình vì thời tiết nắng nóng. Bạn cũng đừng quên mang theo thuốc đau bụng phòng 
             
            Support : Creating Website | Johny Template | Mas Template
            Copyright © 2013. Chia sẻ kinh nghiệm du lịch - All Rights Reserved
            Share by Download Templates
            Proudly powered by Blogger